Quá trình phát triển Xe_tăng_T-64

Obiekt 430

Quá trình thiết kế mẫu xe tăng mới bắt đầu từ năm 1951. Phòng thiết kế KB-60M đã được thành lập tại Cục xây dựng Kharkov trực thuộc Nhà máy xây dựng Kharkov số 75 Malyshev, trong số đó có nhiều kỹ sư quốc phòng điều từ vùng Nizhnyl Tagil. A. A. Morozov được chỉ định làm trưởng phòng. Trong suốt 1953-1955, các quan chức cấp cao đã hai lần kiểm tra dự án phát triển xe tăng và trong cả hai lần dự án đều nhận được những sự hưởng ứng tích cực từ chính phủ thông qua Quyết định số 880-524 tháng 07 năm 1955 của Hội đồng Bộ trưởng của Liên Xô và những nhận xét của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và xây dựng vào ngày 13 tháng 5 năm 1955.

Obiekt 430.Obiekt 430.

Năm 1956, sau một thời gian nâng cấp sửa đổi một số chi tiết, thông số kỹ thuật để phù hợp với các yêu cầu do chính phủ đề ra vào ngày 08 tháng 6 năm 1955, Phòng thiết kế KB-60M đã bắt tay vào chế tạo thử nghiệm phiên bản xe tăng thử nghiệm đầu tiên và gọi là Obiekt 430.

Obiekt 430 được đánh giá vượt trội hơn dòng T-54 về các mặt giáp bảo vệ, hỏa lực, khả năng cơ động nhưng vẫn tương tự về trọng lượng và kích thước. Những tính năng mới của Obiekt 430 được xem như là một cuộc cách mạng trong việc thiết kế và chế tạo xe tăng của Liên Xô. Những tính năng mới của xe bao gồm:

- Lần đầu tiên động cơ 5TD xi lanh đối xứng (opposed cylinder) chạy bằng dầu diesel xuất hiện trong xe tăng và nó được đánh giá là cực kỳ gọn nhẹ. Động cơ được thiết kế tại Cục Thiết kế động cơ diesel Charomskiy. Thiết kế mới với hệ thống truyền động gồm 2 bánh răng 2 bên động cơ khiến cho thể tích của nó giảm đi chỉ còn một nửa so với động cơ của T-54.

- Đơn giản hóa hệ thống truyền động bằng cách lắp đặt các bánh chịu lực mới có đường kính nhỏ rất nhẹ bằng thép với bộ giảm sóc đặt bên trong các vác đĩa làm bằng hợp kim nhôm.

- Nhờ lắp giáp tấm khả năng bảo vệ của xe ở các vị trí thân xe và tháp pháo được tăng cường.

- Thiết bị nhìn đêm được giới thiệu.

- Xe được trang bị một bộ lội sâu.

- Xe sử dụng pháo nòng xoắn D-54T 100mm tương tự như T-54/T-55.

Ba phiên bản thử nghiệm đầu tiên của Obiekt 430 đã được sản xuất tại Nhà máy Malyshev (theo quyết định số 20 của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ngày 25 tháng 02 năm 1957 Nhà máy số 75 đã được đổi tên thành Nhà máy Malyshev) vào năm 1957 và được trình làng ở Kubinka vào năm 1958. Năm 1959, phiên bản đầu tiên của Obiekt 430 được đưa vào thử nghiệm, các quan chức chính phủ vô cùng ấn tượng với thiết kế của xe, đặc biệt là ở thiết kế hệ thống truyền động 5 số của xe tăng.

Mặc dù thiết kế của xe tăng là hoàn toàn mới và các thông số kỹ thuật đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chính phủ, nhưng việc tiếp nhận vào trang bị Quân đội Liên Xô của dòng xe tăng này không thể thực hiện được. Điều này có nhiều nguyên như sự lo lắng của Quân đội Xô Viết về pháo D-54T 100mm của xe bởi loại pháo này tỏ ra không mạnh bằng pháo D-10T của T54/55 hay những loại pháo mới của NATO như loại L7 105mm của Anh, xuất hiện sự hoạt động không tin cậy của động cơ 5TD trong việc vận hành và không ít những nhược điểm thiết kế trong việc đơn giản hóa hệ thống truyền động cũng đã phát sinh sau một thời gian sử dụng. Chính bản thân Aleksandr A. Morozov cũng nhận thấy rằng sẽ không thiết thực nếu đưa Obiekt 430 vào sản xuất hàng loạt

Đến năm 1960, dự án phát triển Obiekt 430 bị ngừng lại. Phòng thiết kế KB-60M quyết định tiếp tục nghiên cứu, kết quả là cho ra đời Obyekt 430U với pháo 120 ly và giáp 160 ly, mục đích xây dựng một xe tăng kiểu mới đủ sức mạnh đảm đượng trọng trách của xe tăng hạng nặng T-10 trước đây. Và tiếp đó là Obiekt 432.

Obiekt 432

Sau thất bại của Obiekt 430, Phòng thiết kế KB-60M đã quyết định tiếp tục tiến hành dự án phát triển xe tăng mới. A.A.Morozov đã hoàn thành và giới thiệu dự tháo thiết kế của xe tăng Obiekt 432 vào năm 1960. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã xem xét, phê duyệt dự thảo thiết kế này thông qua Quyết định số 141-58 được ban hành ngày 17 tháng 2 năm 1961. Công việc lắp ráp, chế tạo được tiến hành tại Nhà máy Malyshev.

Obiekt 432.

Năm 1961, Phòng thiết kế KB-60M bắt đầu đặt tiến hành lắp ráp phiên bản thử nghiệm đầu tiên. Đầu năm 1962, khung gầm của Obiekt 432 đã được hoàn thành. Chiếc xe tăng thử nghiệm đầu tiên được giới thiệu vào tháng 9 năm 1962, chiếc thứ hai được ra mắt ngày 10 tháng 10 năm 1962. Vào ngày 22 tháng 10 năm 1962, một trong số đó đã được đưa đến Kubinka để giới thiệu các lãnh đạo cao cấp của Liên Xô.

Từ năm 1962 đến năm 1963, Phòng thiết kế KB-60M đã tiếp tục lắp ráp thêm 6 phiên bản thử nghiệm của Obiekt 432. Năm 1964, KB-60M đã cho xây dựng một dây chuyền sản xuất nhỏ và đã xuất xưởng 90 xe tăng Obiekt 432. Năm 1965, dây chuyền này tiếp tục hoàn thành thêm 160 chiếc nữa. Từ tháng 3 năm 1963 đến tháng 5 năm 1964, xe được đưa đi thử nghiệm cấp nhà nước.

Ngày 30/12/1966, theo Quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng bộ trưởng Liên Xô, Obiekt 432 chính thức có mặt trong trang bị của quân đội Liên Xô với tên gọi T-64.

Tính năng kỹ thuật của Obiekt 432:

- Khả năng cơ động của xe được nâng lên nhờ được lắp đặt động cơ diesel 5TDF 700 mã lực thay cho loại 580 mã lực của Obiekt 430.

- Để tăng cường hỏa lực của xe, xe được trang bị một pháo nòng trơn U-5TC D-68 (2A21) 115mm với liều phóng rời. Và lần đầu tiên, hệ thống nạp đạn tự động điện thủy lực được áp dụng cho xe tăng. Đây là một quyết định táo bạo vì cho đến thời điểm đó, hệ thống này bị coi là chưa hoàn thiện. Nhưng nhờ đó mà kíp lái giảm từ 4 xuống 3 người, nhờ vậy xe tăng có chiều cao thấp hơn, khối lượng giảm từ 36 tấn xuống 30,5 tấn, chiều cao giảm 76mm.Tốc độ nạp 6,5-15 giây/viên, tùy vị trí ổ quay nhưng độ tin cậy thấp, dễ có trục trặc nếu bảo dưỡng kém.

- Khả năng bảo vệ của xe được tăng cường hơn so với Obiekt 432. Ban đầu 432 dùng giáp thép đúc. Nhưng rồi, pháo 105 mm L7 của Anh ra đời và nhanh chóng được trang bị cho các xe tăng phương Tây như Centaurion và M60 Patton, nhóm thiết kế quyết định trang bị cho 432 giáp ba lớp kết hợp thép+composite+thép (mà phương Tây gọi là mẫu K). Nó gồm 1 lớp plastic được cố kết bằng sợi thủy tinh kẹp giữa 2 lớp thép có siêu bền. Điều này khiến cho trọng lượng toàn bộ xe tăng lên 34 tấn (thay vì 30,5 tấn).

- Xe cũng có được trang bị hệ thống chống phóng xạ, hệ thống bảo vệ NBC (bảo vệ trước vũ khí hạt nhân, sinh học, hoá học)

T-64A

Mẫu mô hình của T-64A.T-64A ở bảo tàng

Ngay khi T-64 đang được chế tạo, một mẫu "Obyekt 434" lại được âm thầm thiết kế với mục đích tạo ra một loại xe tăng có hỏa lực nổi trội hơn các đồng nghiệp T khác. Vì vậy mẫu tăng mới này được lắp đặt khẩu pháo 125 ly D-81T sản xuất tại Perm, một mẫu cải tiến của khẩu 115 ly cũ trên T-62. Tuy nhiên việc mang những viên đạn 125 ly to hơn đồng nghĩa với việc T-64 sẽ mang ít đạn hơn: 25 viên. Mà những thông số chặt chẽ về kích thước của T-64 khiến các nhà thiết kế khó có thể mở rộng khoang chứa đạn được. Cuối cùng họ tìm ra giải pháp: dùng một thiết bị nạp đạn tự động thay cho hệ thống nạp đạn cũ bằng tay, nhờ đó giảm số binh sĩ trong xe tăng từ 4 còn 3 người; đồng thời đây còn là mẫu tăng đầu tiên áp dụng hệ thống nạp tự động (Perrett 1987:42). Từ đó lại dẫn tới những cải tiến về thiết bị nạp đạn: kiểu 6ETs10 với 28 viên đạn và tốc độ nạp 8 viên 1 phút. Ngoài ra còn có hệ thống giữ ổn định 2E23 và thiết bị ngắm TPD-2-1 (1G15-1). Về việc chiến đấu ban đêm, T-64 mới được lắp đặt kính tiềm vọng TPN-1-43A với thiết bị hồng ngoại L2G, được đặt bên trái pháo chính. Về vỏ giáp thì hợp kim duras trong giáp được thay thế bởi các sợi thủy tinh và có lắp thêm các tấm đàn hồi tạo thành giáp diềm chắn bảo vệ phía trước, hai bên hông xe và phía trước bánh xích cũng bằng hợp kim duras. Một số ngăn chứa đồ ngoài xe cũng được lắp đặt thêm, cụ thể là một ngăn ở bên phải và 3 hộp ở bên trái tháp pháo. Thiết bị xả khói mù nằm ở phía sau tháp. Hệ thống bảo vệ NBC cũng được lắp đặt và các lỗ thông gió được mở rộng ra.

Những mẫu thử nghiệm của 434 ra đời năm 1966 và 1967 khi mà T-64 nguyên mẫu đã được sản xuất chừng vài trăm chiếc. Cuối cùng thì nó cũng hoạt động dưới cái tên T-64A. Còn thiết kế trưởng Morozov được nhận giải thưởng Lênin.

Đã mang tiếng là xe tăng "tinh nhuệ" nên T-64 phải luôn được nâng cấp. Chỉ sau 3 năm phục vụ, T-64A đã có mẫu cải tiến:

  • Hệ thống điều khiển bắn mới với thiết bị ngắm TPD-2-49 và TPN-1-49-23 cộng với thiết bị ổn định 2E26.
  • Radio R-123M.
  • Thiết bị nhìn đêm TBN-4A cho lái xe và TNP-165A cho xa trưởng. Chỗ ngồi của xa trưởng có thêm 1 tháp pháo ổn định trang bị đại liên phòng không NVST 12,7 ly x 108 (300 viên) điều khiển điện tử, ngắm bắn bởi thiết bị PZU-5. Vì vậy xa trưởng có thể ngắm bắn ngay trong xe tăng, không cần phải trèo ra ngoài tháp pháo không được che chắn, bảo vệ. Ngoài ra còn có hệ thống chống mìn KMT-6.

Cùng năm mẫu T-64AK dành cho chỉ huy cũng xuất hiện, trang bị một rađiô R-130M có ăngten loại xếp (telescoped – giống loại ăng ten cắm trên tivi, có thể thay đổi độ dài) dài tới 10m. Ăngten chỉ hoạt động trong trạng thái cố định vì được giữ bởi các dây chằng. Ngoài ra còn có thiết bị ngắm PAB-2AM và thiết bị định hướng TNA-3. Một máy phát điện dùng nhiên liệu xăng sẽ cung cấp năng lượng cho tất cả chúng.

Đến năm 1976, hệ thống vũ khí T-64A lại được cải tiến với khẩu pháo mới D-81TM (2A46-1), được giữ ổn định bằng 2E28M2 và tiếp đạn bởi 6ETs10M. Thiết bị nhìn đêm cũ được thay bằng TNPA-65. Động cơ mới có thể dùng nhiều loại nhiên liệu khác nhau, trong đó có dầu diesel, xăng hay kerosene. Đến năm 1980 Liên Xô ngừng sản xuất các xe tăng mẫu này.

Tuy nhiên sau năm 1981 các mẫu tăng T-64A vẫn tiếp tục được nâng cấp và hiện đại hóa: thay các giáp yếm bằng các tấm giáp váy cao su nhằm tăng khả năng sống sót cho xe tăng; trang bị thêm 6 ống phóng lựu 81 ly 902A trên tháp pháo, hai bên pháo chính. Một số T-64A sau năm 1985 còn được trang bị thêm giáp phản ứng nổ (giống T-64BV), thiết bị đo khoảng cách TPD-K1 thay cho TPD-2-49 (1981). Nói chung là hầu hết các mẫu T-64A đều được nâng cấp thành T-64R trong khoảng 1977-81; chủ yếu là cải tiến về các khoang chứa đồ ngoài xe và hệ thống ống phun khói mù.

T-64B

T-64B1T-64BV được phủ giáp phản ứng nổ Kontak-1T-64BM trong một cuộc diễu hành

Tuy nhiên mẫu T-64 hiện tại vẫn có trục trặc: cơ cấu của động cơ 5TDF tại nơi sản xuất nó khiến cho nó không được cung ứng đầy đủ cho các nhà máy sản xuất xe tăng chính của Liên Xô: Malyshev tại Kharkov, Kirov tại Leningrad và Uralvagonzavod).

Ngay từ năm 1961, bên cạnh Obyekt 432, một mẫu tăng khác mang động cơ 12 V-xilanh V-45 mang tên Obyekt 436 cũng được nhóm của Morozov nghiên cứu. Ba mẫu thử nghiệm đã được kiểm tra ở nhà máy Chelyabinsk vào năm 1966. Sau đó mệnh lệnh được ban ra là phải phát triển một mẫu tăng mới từ Obyekt 434 và sử dụng động cơ V-45, lấy tên là Obyekt 439. Bốn chiếc 439 đã được sản xuất vào năm 1969, được đánh giá là có độ cơ động ngang với mẫu T-64 đang được sản xuất hàng loạt. Mặc dù 439 không được đưa vào chế tạo đại trà nhưng nó là cái sườn cho việc phát triển T-72.

Vào đầu thập niên 1970, nhóm thiết kế T-64 lại tiếp tục suy nghĩ phương cách cải tiến các mẫu tăng của mình xa hơn nữa. Mẫu T-64A-2M với động cơ mạnh hơn và tháp pháo được cải tiến, trở thành tiền đề cho hai mẫu tăng dưới đây:

  • Obyekt 476 trang bị động cơ 6TD 1000 mã lực (735 kW) là tiền đề cho xe tăng T-80.
  • Obyekt 447 với hệ thống điều khiển bắn mới, thiết bị đo xa dùng laser và có thêm khả năng bắn tên lửa ATGM qua nòng pháo.

Sau đó, mệnh lệnh ban xuống yêu cầu bắt đầu việc sản xuất đại trà obyekt 447 dưới cái tên T-64B. Đồng thời, obyekt 437 (mẫu mà 447 lấy làm nguyên mẫu với 95% chi tiết giống như 447 nhưng không có hệ thống điều khiển tên lửa chống tăng để tiết kiệm chi phí) cũng được sản xuất với số lượng gấp đôi dưới cái tên T-64B1. Vào ngày 9 tháng 3 năm 1976, T-64B và T-64B1 sau khi được đánh giá tốt về chất lượng đã chính thức phục vụ trong quân đội Liên Xô, với trang bị mới là khẩu pháo D-81Tm (2A46-2) cùng thiết bị ổn định 2E26M, thiết bị nạp 6ETs40 và hệ thống điều khiển bắn 1A33, bao gồm:

  • Thiết bị tính đường đạn 1V517.
  • Thiết bị ngắm 1G21 với một máy đo khoảng cách dùng laser.
  • Một cảm biến cross-wind 1B11.

T-64B có khả năng lội nước sâu tới 1,8 mét mà không cần các thiết bị hỗ trợ. Nó cũng có thể bắn tên lửa ATGM 9M112 Kobra (NATO gọi là AT-8 Songster) qua nòng pháo để tiêu diệt mục tiêu từ cự ly xa 4.000 (trong khi cự ly hiệu quả của đạn pháo tăng thông thường chỉ khoảng 3.000 mét), cho phép T-64 tiêu diệt xe tăng địch trước khi chúng có thể bắn trả. 9M112 Kobra cũng có thể tiêu diệt được trực thăng địch (nếu nó đang bay chậm và ở độ cao thấp).

Giá mỗi quả tên lửa 9K112 Kobra vào năm 1976 là khoảng 5.000 rúp, khá đắt so với đạn pháo thông thường (một động cơ diesel cho xe tăng thời đó có giá 9.000 rúp, một chiếc T-64A có giá 143.000 rúp), do vậy nó chỉ được ưu tiên trang bị cho những loại xe cao cấp như T-64B và T-80 (mỗi xe cũng thường chỉ trang bị 4 tên lửa)[8]

Dự trữ đạn dược của xe tăng là 28 viên đạn và 4-8 tên lửa. Hệ thống điều khiển tên lửa đặt phía trước xe tăng đã có nhiều thay đổi. Còn T-64B1 không có tên lửa mà chứa 37 viên đạn 125 ly cùng với băng đạn 2.000 viên dành cho đại liên đồng trục 7,62 ly, trong khi đó T-62B mang băng đạn 1250 viên.

Năm 1981 T-64B được nâng cấp với khẩu pháo 2A46M1, thiết bị ổn định 2E42 và 2 cụm ống phóng lựu đạn khói 902A "Tucha-1" đặt hai bân tháp pháo. Hai phiên bản chỉ huy của T-64B cũng ra lò: the T-64BK and the T-64B1K, trông rất giống T-64AK.

Vào tháng 10 năm 1979 động cơ 6TD được đưa vào sản xuất hàng loạt và được trang bị cho các xe tăng T-64B, B1, A, AK, thế là ra đời các mẫu tăng mới: T-64AM, T-64AKM, T-64BM và T-64BAM.

Năm 1987, Liên Xô ngừng sản xuất tất cả các mẫu tăng T-64. Tổng số lượng T-64 lúc này là gần 10700 chiếc.

T-64 hiện đại hóa ở Ukraina

T-64BM Bulat trong một cuộc diễn tập

Sau khi Liên Xô tan rã, Ukraina vẫn tiếp tục công việc nâng cấp và hiện đại hóa các mẫu T-64 của mình, một phần là vì nơi sản xuất chủ yếu của T-64, Nhà máy Malyshev nằm trên đất Ukraina.

Ukraina có hai chương trình nâng cấp T-64 và đều kết thúc vào năm 1999:

  • T-64BM2, với động cơ 57DFM 850 mã lực (625 kW), hệ thống điều khiển bắn mới 1A43U, thiết bị nạp đạn 6ETs43 cộng thêm khả năng bắn tên lửa ATGM 9M119 (NATO gọi là AT-11 Sniper).
  • T-64U còn gọi là T-64BM "Bulat", với hệ thống điều khiển bắn 1A45 (lấy từ T-80U và T-84), thiết bị ngắm PNK-4SU và TKN-4S dành cho xa trưởng và PZU-7 dành cho đại liên phòng không. Xa trưởng cũng có thể trực tiếp lái tăng và trực tiếp bắn nếu cần.

Cả hai mẫu đều dùng giáp phản ứng nổ Kontakt-5 có thể chống được đạn động năng (đạn sabot) trong khi các mẫu T-64 trước chỉ có thể chống được đạn HEAT. Cả hai mẫu đều có thể trang bị động cơ 6TDF 1000 mã lực (735 kW).

Một mẫu nâng cấp khác là T-64E, nâng cấp từ T-64BV. Sử dụng động cơ diesel mới 5TDFE có công suất 850 mã lực và độ tin cậy được cải thiện. Ukraina tuyên bố giáp trước tháp pháo của T-64E mạnh tương đương 750mm thép cán. Trang bị giáp phản ứng nổ NOZH có khả năng bảo vệ trước đầu đạn nổ chống tăng liều đúp. Có thiết bị phòng thủ chủ động Varta (phiên bản cải tiến của Shotra-1), hệ thống ngắm bắn và điều khiển hỏa lực được cải tiến. Năm 2011 giá một chiếc T-64E là 1,12 triệu Mỹ kim.[9]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Xe_tăng_T-64 http://www.military-today.com/tanks/t64e.htm http://www.militaryfactory.com/armor/detail.asp?ar... http://www.youtube.com/watch?v=i7ws3gI0o1k http://www.youtube.com/watch?v=rGzIoaiFpvM http://www.youtube.com/watch?v=wPdRNQds7Bg http://www.t-64.de/frame-start.htm http://www.knox.army.mil/center/ocoa/ArmorMag/ja98... http://www.fas.org/man/dod-101/sys/land/row/t64tan... http://www.globalsecurity.org/military/world/centr... http://militaryrussia.ru/forum/download/file.php?i...